Mức thuế chống bán phá giá mật ong: Đã tiến bộ nhưng chưa thỏa đáng

Bộ Thương mại Hoa Kỳ (DOC) vừa ban hành kết luận cuối cùng về mức thuế trong vụ việc điều tra chống bán phá giá mật ong nhập khẩu từ Argentina, Brazil, Ấn Độ và Việt Nam.

Theo đó, thuế chống bán phá giá dành cho các doanh nghiệp Việt Nam đã giảm rất mạnh, từ mức 410,93% - 413,99% trong kết luận sơ bộ xuống còn 58,74% - 61,27%. Ông Đinh Quyết Tâm - Chủ tịch Hội nuôi ong Việt Nam đã có cuộc trao đổi với phóng viên Báo Công Thương ngay sau quyết định này.

ộ Thương mại Hoa Kỳ (DOC) vừa ban hành kết luận cuối cùng về mức thuế trong vụ việc điều tra chống bán phá giá mật ong nhập khẩu từ Argentina, Brazil, Ấn Độ và Việt Nam. Theo đó, thuế chống bán phá giá dành cho các doanh nghiệp Việt Nam đã giảm rất mạnh, từ mức 410,93% - 413,99% trong kết luận sơ bộ xuống còn 58,74% - 61,27%. Ông đánh giá như thế nào về con số này?

Về kết luận sơ bộ ban đầu này theo tôi có ý nghĩa rất lớn về mặt chính trị, bởi sự vào của cả hệ thống chính trị từ Chính phủ, Bộ trưởng các Bộ: Công Thương, Nông nghiệp và Phát triển nông thôn; lãnh đạo Cục Phòng vệ Thương mại, Vụ thị trường châu Âu - châu Mỹ (Bộ Công Thương); vai trò quan trọng của ngành sản xuất, xuất khẩu mật ong trong việc hợp tác với Cơ quan điều tra và cả sự ủng hộ của các nhà nhập khẩu Hoa Kỳ trong gần 1 năm qua đã đem lại kết quả này.

f5596642d35ade7e0f80f6a75434daa8.jpg

Bộ Thương mại Hoa Kỳ giảm mạnh thuế chống bán phá giá đối với sản phẩm mật ong của Việt Nam

Như vậy, so với kết luận sơ bộ, biên độ phá giá cho các doanh nghiệp Việt Nam ở kết luận cuối cùng giảm gần 7 lần.

Tuy nhiên, theo tôi về mặt thương mại thì lại không có ý nghĩa nhiều. Bởi lẽ, trong khi mức thuế chống bán phá giá mà Hoa Kỳ áp dụng cho Ấn Độ chỉ ở mức 5,85%, còn áp dụng đối với Việt Nam ở con số 58,74% - 61,27%. Đây là con số quá cao. Kết quả này đã tiến bộ nhưng theo tôi vẫn chưa thỏa đáng.

Cơ sở để tính ra con số 410,93% - 413,99% lúc đầu và 58,74% - 61,27% hiện nay là chưa hợp lý. Với mức thuế này thì mật ong của Việt Nam không thể cạnh tranh được mật ong của Ấn Độ tại thị trường Hoa Kỳ.

Ông có thể nói cụ thể hơn về việc này?

Trong điều kiện kinh tế xã hội và sản xuất của Việt Nam và Ấn Độ là tương đương nhau. Sản phẩm mật ong của Việt Nam và Ấn Độ gần tương đồng nhau như nhau. Số lượng xuất khẩu mật ong của Việt Nam và Ấn Độ vào thị trường này là như nhau (khoảng trên 50.000 tấn), phân khúc thị trường như nhau, giá cả không chênh nhau nhiều.

3ea8dbba87da4c30caed2c84bac1de8b.jpg

Ông Đinh Quyết Tâm - Chủ tịch Hội nuôi ong Việt Nam

Ấn Độ và Việt Nam cùng trong nhóm đối tượng của điều tra chống bán phá giá. Hoa Kỳ chưa công nhận Việt Nam là nền kinh tế thị trường và DOC và lấy giá của Ấn Độ làm giá trị thay thế để tính toán và kết quả cuối cùng.

Về phía Hội nuôi ong Việt Nam và các đối tượng điều tra chống bán phá giá đều đã cung cấp tất cả các số liệu cần thiết cho DOC. Tuy nhiên, mức thuế chống bán phá giá của Việt Nam phải chịu cao hơn 10 lần so với của Ấn Độ. Cơ sở nào để đưa ra kết quả chênh nhau nhiều như vậy? Trong khi thu nhập bình quân đầu người của Ấn Độ cũng như ngày công lao động của người nuôi ong Ấn Độ cao hơn Việt Nam.

Con số này thực sự chưa công bằng cho các nhà nuôi ong Việt Nam và liệu có sự phân biệt đối xử nào không? Do đó, việc này chúng ta cần phải tiếp tục đấu tranh để phía DOC có những tính toán hợp lý hơn. Tôi cho rằng, ngay cả các nhà nhập khẩu Hoa Kỳ cũng chưa hài lòng về con số này.

Tại Hoa Kỳ, có hai cơ quan tham gia vào một vụ việc điều tra chống bán phá giá là DOC (xác định mức thuế chống bán phá giá) và Ủy ban Thương mại Quốc tế Hoa Kỳ - ITC (xác định thiệt hại của ngành sản xuất trong nước). Biện pháp chống bán phá giá sẽ chính thức có hiệu lực trên cơ sở kết luận cuối cùng về bán phá giá và thiệt hại của ngành sản xuất trong nước. Ông có kiến nghị gì với phía cơ quan chức năng Hoa Kỳ?

Hiện nay, ITC đang điều tra về thiệt hại và dự kiến ban hành kết luận cuối cùng vào ngày 23/5/2022. Theo số liệu thống kê của ITC, sản lượng mật ong Việt Nam xuất khẩu sang Hoa Kỳ năm 2021 đạt 56.133 tấn với kim ngạch khoảng 82,1 triệu USD.

Về phía Việt Nam, không chỉ các cơ quan chuyên môn mà cả các đối tượng điều tra bắt buộc và đối tượng tự nguyện đã cung cấp tất cả các dữ kiện cần thiết cho phía DOC. Nhưng kết quả vẫn còn quá chênh lệch. Do đó, tôi cho rằng phía DOC cần tính toán lại việc này, xem thật sự đã hợp lý chưa.

Các cơ quan chức năng của Việt Nam như: Bộ Công Thương, Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, Đại diện thương mại Việt Nam tại Hoa Kỳ, Hội nuôi ong Việt Nam vẫn kỳ vọng phía Hoa Kỳ xem xét một cách công bằng hơn.

Về phía các cơ quan chức năng như Bộ Công Thương, Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, Cục Phòng vệ Thương mại, Hiệp hội ong Việt Nam cần tiếp tục đấu tranh để có được kết quả hợp lý hơn.

Ông kỳ vọng vào mức phán quyết cuối cùng nào của DOC đối với mật ong Việt Nam?

Theo tôi, nếu công bằng thì mức thuế phải bằng hoặc thấp hơn mức thuế chống bán phá giá mà Hoa Kỳ áp cho Ấn Độ.

Việc áp thuế như hiện nay sẽ gây thiệt hại không chỉ riêng đối với người sản xuất và ngành mật ong của Việt Nam mà còn thiệt hại cho ngay cho nhà sản xuất và nhập khẩu Hoa Kỳ. Bởi lẽ, hơn 30 năm qua các nhà nhập khẩu Hoa Kỳ là bạn hàng truyền thống, họ đã dùng nguyên liệu của Việt Nam, phân khúc thị trường và người tiêu dùng đã quen với sản phẩm này.

Hiện nay, việc sản xuất và xuất khẩu mật ong của Ấn Độ vào Hoa Kỳ tăng lên rất nhiều so với năm ngoái do thiếu hụt hàng. Những nhà máy và người tiêu dùng Hoa Kỳ không thể ngày một ngày hai mà chuyển ngay được nguồn nguyên liệu thay thế của Việt Nam và chấp nhận hàng thay thế với mức giá cao hơn.

Do đó, tôi xin nhấn mạnh một lần nữa, việc đưa về mức thuế công bằng, hợp lý sẽ không chỉ mang lợi ích cho người sản xuất Việt Nam mà còn mang lại lợi ích cho người tiêu dùng Mỹ cũng như nhà sản xuất thực phẩm Hoa Kỳ.

Bên cạnh việc đàm phán, kiến nghị DOC xem xét lại mức thuế áp chống bán phá giá hợp lý, các doanh nghiệp xuất khẩu mật ong cũng đang chuyển hướng xuất khẩu sang các thị trường khác tránh phụ thuộc vào một thị trường như Hoa Kỳ, ông đánh giá như thế nào về việc này?

Bên cạnh việc đàm phán, kiến nghị DOC xem xét lại mức thuế áp chống bán phá giá hợp lý, trong thời gian qua, Hội nuôi ong Việt Nam và các doanh nghiệp cũng đang cố gắng thay đổi quy trình sản xuất cũng như có được sản phẩm phù hợp với các thị trường khác như EU, ASEAN.... Bên cạnh việc mở rộng thị trường xuất khẩu, nhu cầu thị trường nội địa cũng tăng lên.

Mọi việc bước đầu cũng còn gặp nhiều khó khăn. Chúng ta không thể thay đổi được ngay được thị trường nhập khẩu nhưng những dấu hiệu ban đầu cho thấy có nhiều hứa hẹn. Các cơ quan quản lý chuyên ngành, các hiệp hội, ngành hàng, doanh nghiệp và ngay cả người sản xuất đã bước đầu có những sự thay đổi để phù hợp với thị trường mới.

Xin cám ơn ông!

Tháng 5/2021, Bộ Thương mại Hoa Kỳ đã có thông báo chính thức khởi xướng điều tra chống bán phá giá đối với sản phẩm mật ong có xuất xứ từ một số nước, trong đó có Việt Nam.

Cuối năm 2021, Bộ Thương mại Hoa Kỳ công bố mức thuế chống bán phá giá sơ bộ đối với mặt hàng mật ong Việt Nam xuất khẩu sang thị trường này là 412,49%. Đây là mức thuế cao gấp đôi so với mức thuế mà Hiệp hội các nhà sản xuất mật ong Hoa Kỳ đề xuất ban đầu là 207%.

Ngày 8/4/2022, Bộ Thương mại Hoa Kỳ vừa ban hành kết luận cuối cùng về mức thuế trong vụ việc điều tra chống bán phá giá mật ong nhập khẩu từ Argentina, Brazil, Ấn Độ và Việt Nam. Theo đó, thuế chống bán phá gái dành cho các doanh nghiệp Việt Nam đã giảm rất mạnh, từ mức 410,93% - 413,99% trong kết luận sơ bộ xuống còn 58,74% - 61,27%.

Thị trường Hoa Kỳ chiếm tới 95% sản lượng xuất khẩu của mật ong Việt Nam. Sản phẩm mật ong của Việt Nam xuất khẩu sang Hoa Kỳ chủ yếu là mật lá được làm nguyên liệu chủ yếu trong ngành công nghiệp thực phẩm. Việc DOC áp mức thuế chống bán phá giá đối với mật ong Việt Nam không chỉ gây thiệt hại cho các doanh nghiệp xuất khẩu mật ong của Việt Nam mà cũng gián tiếp gây ra khó khăn cho các nhà nhập khẩu mật ong tại Mỹ do thiếu nguồn cung nguyên liệu cho chế biến.

 

 

Nguồn: Theo báo Công Thương

Bình luận

Hành trình quả vải Lục Ngạn sang Trung Quốc: Cách một bước chân, giá gấp đôi

Vượt qua biên giới chỉ chục km vào chợ đầu mối hoa quả lớn nhất Quảng Tây, giá vải Lục Ngạn (Bắc Giang) tăng gấp đôi.

Phát hiện loài tỏi rừng mới tại thác Bảy Nàng Tiên, Phong Điền

Các nhân viên bảo vệ rừng Khu Bảo tồn Thiên nhiên Phong Điền đã phát hiện loài tỏi rừng mới mọc ở vách đá đỉnh thác Bảy Nàng Tiên, gần khu vực Rào Trăng.

Các nhà khoa học nói gì về tương lai bèo hoa dâu ở Việt Nam?

Ông Đào Thế Anh - Phó Giám đốc Viện Khoa học Nông nghiệp Việt Nam vừa trở về từ Sierra Leone mang theo giống bèo hoa dâu Azolla pinnata, cành to gấp nhiều lần bèo nội.

Sản xuất lúa các bon thấp, lợi nhuận tăng đáng kể

Mô hình sản xuất lúa các bon thấp cho thấy hiệu quả tăng lợi nhuận khoảng 20 - 30% so với sản xuất truyền thống, nông dân Cần Thơ phấn khởi tham gia.

Cấp 'thẻ căn cước' cho tôm giống

'Nhất giống, nhì môi, tam mồi, tứ kỹ', đây là kinh nghiệm được truyền tai nhau để khẳng định tầm quan trọng của con giống trong nuôi trồng thủy sản.

Nông sản Việt Nam chất lượng rất tốt, nhưng bán hàng còn kém

Nông sản Việt Nam có chất lượng rất tốt, nhưng bán hàng còn kém. Nếu cải thiện được khâu này, nông sản Việt Nam sẽ còn đi xa hơn nữa trên thị trường thế giới.

Gợi ý chiến lược tạo vị thế dẫn đầu cho nông nghiệp Việt Nam

Với những lợi thế sẵn có, Việt Nam sẵn sàng tâm thế áp dụng công nghệ mới, tiên tiến theo dòng Cách mạng Công nghiệp 5.0 phát triển nông nghiệp tuần hoàn, bền vững.

Phát triển kinh tế vùng trung du và miền núi Bắc bộ - Sức bật mới cho khu vực

Vùng Trung du và miền núi Bắc bộ là vùng có nhiều tiềm năng, lợi thế cho phát triển bền vững với nhiều loại tài nguyên, khoáng sản quý hiếm và diện tích đồi rừng rộng lớn. Phát triển vùng là chủ trương xuyên suốt và nhất quán của Đảng...

'Tứ nông' - góc nhìn thực tiễn

Người không có đất nông nghiệp để sản xuất, người mất việc từ khu công nghiệp trở về nông thôn tìm kiếm việc làm - người ta gọi những người/hộ đó là 'tứ nông'.

Tạo sự chuyển biến mạnh mẽ trong nông nghiệp, nông dân, nông thôn

Sau gần 15 năm thực hiện Nghị quyết số 26-NQ/TW Hội nghị Trung ương 7 khóa X, về nông nghiệp, nông dân, nông thôn, với sự vào cuộc quyết liệt của hệ thống chính trị và sự chung sức, đồng lòng của người dân, diện mạo nông thôn đã có nhiều đổi thay