Thăm phường rối gia đình cuối cùng ở Tế Tiêu

Rối cạn Tế Tiêu đang trên hành trình được ghi danh vào danh mục di sản văn hóa phi vật thể quốc gia. Song ít ai biết được rằng, những gì còn lại ở Tế Tiêu ngày nay chỉ là một phường rối gia đình với chục buổi biểu diễn mỗi năm.

Rối không nuôi sống được nghệ nhân chơi rối, nhưng nghệ nhân vẫn “nuôi” rối sống bền bỉ hàng trăm năm nay.

Tin vui đầu năm từ nghệ nhân ưu tú trẻ nhất Việt Nam

Làng Tế Tiêu nằm ở thị trấn Đại Nghĩa, huyện Mỹ Đức, Hà Nội (địa phận Hà Tây cũ), nổi tiếng với nghệ thuật múa rối truyền thống. Hà Nội có nhiều địa danh gắn với rối nước, nhưng rối cạn thì chỉ có ở Tế Tiêu.

Những ngày này, trong không khí nô nức chuẩn bị đón Tết cổ truyền của dân tộc, ngôi làng sản sinh ra đặc sản rối cạn nổi tiếng Bắc Bộ cũng có vẻ sôi động hơn bình thường. Đặc biệt, người dân làng rối đang nóng lòng chờ đợi ngày rối Tế Tiêu được công nhận là di sản văn hóa phi vật thể quốc gia.

Đây là lần thứ hai tôi trở lại Tế Tiêu. Lần đầu vào cuối năm 2019, khi “trùm phường” rối gia đình cuối cùng còn sót lại ở đây – anh Phạm Công Bằng (sinh năm 1976) được công nhận là nghệ nhân ưu tú và trở thành nghệ nhân ưu tú trẻ nhất Việt Nam hiện nay.

t1.jpg

Nghệ nhân Phạm Công Bằng (sinh năm 1976) được công nhận là nghệ nhân ưu tú và trở thành nghệ nhân ưu tú trẻ nhất Việt Nam hiện nay. Ảnh: Hoàng Yến

Lần này, vẫn là anh Bằng, trong khi tiếp chúng tôi tại căn nhà là nơi phường rối gia đình hoạt động, anh không giấu được vẻ tự hào bởi sau bao nhiêu năm giữ gìn, trao truyền thứ di sản văn hóa dân gian này cho hậu thế, gia đình anh đã được giúp rối Tế Tiêu “sống” tiếp.

“Các hồ sơ, thủ tục trình lên cơ quan quản lý chúng tôi đã hoàn tất, theo đánh giá sơ bộ thì kết quả có vẻ khả quan, tôi hi vọng sớm nhận được tin vui”, anh Bằng nói. Đồng thời anh cho biết, thời gian gần đây, ngày càng có nhiều cá nhân, đơn vị tìm về Tế Tiêu để tìm hiểu nghệ thuật múa rối. Từ các cháu học sinh cấp hai được nhà trường cho đi tham quan làng rối cho đến em sinh viên ngành Văn hóa, Mỹ thuật và khách du lịch khắp nơi. Phường rối cũng nhận được nhiều lời mời biểu diễn hơn.

Đặc biệt, theo lời anh Bằng, trong quá trình làm hồ sơ để được công nhận di sản văn hóa phi vật thể quốc gia, anh đã được một sinh viên ngành Mỹ thuật giúp thiết kế logo, bộ nhận diện thương hiệu miễn phí. Logo đẹp, toát lên cái hồn cốt của rối Tế Tiêu khiến anh rất cảm động, cảm thấy đam mê của mình nhận được sự đồng cảm của thế hệ trẻ.

t3.jpg

Sau bao nhiêu năm giữ gìn, trao truyền thứ di sản văn hóa dân gian này cho hậu thế, gia đình anh đã được giúp rối Tế Tiêu “sống” tiếp. Ảnh: Hoàng Yến

Khi được hỏi sẽ làm gì tiếp sau khi được công nhận là di sản văn hóa phi vật thể quốc gia, anh Bằng cho biết, anh có tham vọng mở rộng phường rối gia đình trở thành một không gian văn hoá du lịch làng nghề của địa phương, một mặt diễn ra các hoạt động biểu diễn trao truyền di sản văn hóa, một mặt tạo ra sản phẩm du lịch để kích cầu du lịch cho địa phương, tạo thêm sinh kế cho người dân.

Rối Tế Tiêu bao giờ hết… rối?

Trong khi tiếp chuyện nghệ nhân Phạm Công Bằng, từ căn nhà mái bằng khang trang nơi phường rối hoạt động, tôi nhìn ra khoảng sân gạch có nhà thủy đình rộng chừng 200m2, tất cả đều ngăn nắp và đẹp đẽ. Cảm giác ấm áp lan tỏa như vừa tìm lại được những xúc cảm chộn rộn của tuổi thơ nơi làng quê Bắc Bộ năm nào.

Trong ký ức của những người già ở làng Tế Tiêu thì nghề rối (gọi là chơi rối) nơi đây có tuổi đời hơn 100 năm, được khởi xướng bởi một người mang tên “ông Cao” có tài năng làm trò rối, leo dây trong những gánh xiếc.

Sau này, nghề rối Tế Tiêu phát triển mạnh vào những năm 1956, 1957 và thường được biểu diễn các dịp hội làng, trung thu, tiễn bộ đội lên đường..., trở thành một nét văn hóa dân gian không thể thiếu của người dân bên bờ sông Đáy.

Chia sẻ với chúng tôi, anh Phạm Công Bằng – Trưởng phường rối Tế Tiêu - dần nhớ lại những ngày ấu thơ đi theo cha – cố nghệ nhân Phạm Văn Bể - học nghề và biểu diễn.

Sinh thời, cụ Phạm Văn Bể (học trò của nghệ nhân Lê Đăng Nhượng) là người “giữ lửa” cho nghề rối Tế Tiêu và gây dựng nên phường rối gia đình mình, gồm 9 người con ruột cùng nhiều anh chị em họ hàng. Hiện tại, phường rối gia đình cụ Bể là phường rối gia đình cuối cùng ở Tế Tiêu, đại diện cho loại hình văn hóa dân gian phi vật thể nổi tiếng của mảnh đất này.

Theo lời kể của anh Bằng thì cụ Bể bắt đầu gắn bó với nghề vào khoảng những năm 1957. Và trước nguy cơ mai một thứ nghề cổ truyền này của quê hương những năm sau đó, cụ Bể quyết tâm vực dậy nghề rối vào những năm 1990 và rối Tế Tiêu đã thực sự được hồi sinh sau 25 năm gián đoạn, mở ra một giai đoạn phát triển mới.

Phạm Công Bằng là con trai thứ 9, đồng thời là truyền nhân của cụ Bể, tiếp bước cha trên con đường duy trì nghề cổ. Năm 2001, anh Bằng cùng với cụ Phạm Văn Bể đã xây dựng Thủy đình để biểu diễn phục vụ bà con trong làng cũng như thu hút rất nhiều du khách trong và ngoài nước đến thưởng thức. Nhà thủy đình được xây dựng nhờ nguồn tiền của Quỹ Ford Việt Nam, trên mảnh đất do chính quyền địa phương hỗ trợ.

Đến năm 2016, cụ Bể qua đời ở tuổi 92, mang theo nhiều tâm huyết chưa tròn vẹn với nghề rối cổ truyền. Thực hiện nốt nguyện vọng của cha, anh Phạm Công Bằng vẫn ngày đêm cặm cụi đẽo gọt những con rối gỗ, truyền dạy cho những em thiếu nhi hoặc thanh niên trong làng có nhu cầu học nghề, và chủ trì những tiết mục biễu diễn rối nước, rối cạn mỗi khi nhận được lời mời.

t2.jpg

Những năm qua, rối Tế Tiêu - với gần 100 trò diễn, hàng nghìn chú rối - đã vượt khỏi làng xã, đến với những hội diễn lớn ở Hà Nội, dự liên hoan quốc tế tổ chức tại Bảo tàng Dân tộc, các triển lãm du lịch làng nghề, các kì Festival Huế… và giành được cả giải thưởng lẫn sự yêu mến của khán giả trong và ngoài nước. Ảnh: Hoàng Yến

Nhưng có một điều đáng buồn là trong khi hầu hết khách du lịch nước ngoài tỏ ra thích thú với múa rối của Việt Nam thì bộ môn này vẫn rất yếu ớt trong những nỗ lực kéo khán giả trong nước đến sân khấu. Vào các dịp nghỉ lễ, trong khi rạp chiếu phim, các trung tâm thương mại luôn đông đúc thì những sân khấu rối vẫn… vắng hoe hoặc chỉ lác đác khán giả Việt Nam.

Chia sẻ với PV, nghệ nhân ưu tú Phạm Công Bằng cho biết: Phường rối Tế Tiêu hoạt động trên danh nghĩa phường rối gia đình. Chính quyền chỉ tạo điều kiện về cơ sở vật chất còn mọi chi phí hoạt động, trao truyền di sản đều do cá nhân anh và thành viên đóng góp. Bởi vậy không ai coi múa rối là một nghề, mà chỉ là một thú tiêu khiển, hoạt động vì truyền thống gia đình và quê hương sau những phút mưu sinh vất vả. Bản thân anh Bằng cũng có một cửa hàng bán thiết bị loa đài để mưu sinh, lấy tiền đó nuôi đam mê bảo tồn nghề rối. Đi biểu diễn được chút tiền ít ỏi, anh và các nghệ sĩ không nhận mà lại để đầu tư mua gỗ làm rối, sắm trang phục, phụ kiện cho con rối.  

Không giấu nổi vẻ ngậm ngùi, anh Bằng cho biết, một năm phường rối Tế Tiêu nhận được khoảng 15 lời mời biểu diễn. Trung bình mỗi tháng chỉ biểu diễn một lần. Và khi tấm màn nhung sân khấu khép lại, một câu hỏi lớn vẫn treo lơ lửng: “Những tiết mục, vở diễn sau liên hoan sẽ có đời sống như thế nào? Những con rối đi về đâu?”, mặc dù ai cũng biết chúng sẽ được… cất kho là chính (!!)

“Đấy là điều vừa đáng tiếc vừa lãng phí đối với nghệ thuật múa rối nước nhà” - họa sĩ Ngô Quỳnh Giao, người cả đời gắn liền với rối, nói.

Nhưng, tôi mừng vì rối Tế Tiêu nay đã bớt… rối, do được sự quan tâm của chính quyền địa phương. Theo chủ trương, huyện Mỹ Đức sẽ phát triển rối Tế Tiêu thành điểm du lịch, gắn với tuyến du lịch chùa Hương. Điều này cũng phù hợp với nguyện vọng của anh Phạm Công Bằng.

t4.png

Nhưng đấy là tương lai. Từ nay đến lúc ấy, thì rối Tế Tiêu vẫn phải tồn tại. Anh Bằng dự định dựng một sân khấu nhỏ để có thể diễn những tích trò ngắn, cơ động để phục vụ khách tham quan. Cùng với đó, tổ chức một phòng trưng bày để giới thiệu lịch sử hình thành, phát triển, những nét đặc trưng của phường rối.

“Thời đại công nghệ, các bạn nhỏ thường bị cuốn hút bởi những phương tiện nghe nhìn khác. Không chỉ rối mà nhiều môn nghệ thuật truyền thống đều gặp khó khăn. Mình nghĩ rằng, muốn nghệ thuật truyền thống có sức sống, thì cần thổi hơi thở đương đại vào nghệ thuật. Điều ấy sẽ thu hút các bạn trẻ hơn”, nghệ nhân Phạm Công Bằng chia sẻ.

 

Bình luận

Hải Phòng: Nghề nuôi ngao mang lại thu nhập 1.000 tỉ đồng mỗi năm

Từ 2003 bãi nuôi thả ngao đã được hình thành tại bãi triều cửa sông Văn Úc, huyện Kiến Thụy (TP Hải Phòng). Đến nay, nghề nuôi ngao đã giúp hàng nghìn hộ gia đình vươn thoát nghèo, có của ăn của để, giá trị kinh tế mỗi năm đạt 600 - 1.000 tỷ đồng

Tôm mới thả, đã chết như ngả rạ

Nhiều vùng nuôi ở Khánh Hòa tôm mới thả chưa đầy 1 tháng đã chết la liệt, người nuôi bỏ đầm. Thời tiết bất thường được nhận định là nguyên nhân khiến tôm chết.

Khó khăn nghề cá ở Thanh Hóa

Đầu năm nay, nhiều phương tiện nghề cá ở Thanh Hóa “nằm bờ” nên sản lượng đánh bắt hải sản 4 tháng đầu năm giảm hơn 4% so cùng kỳ. Ngư dân mong Nhà nước có chính sách bình ổn, hỗ trợ giá dầu để tiếp tục vươn khơi, bám biển.

Làm nông trên lưng chừng núi giữa biển Tây

Sống ở đảo khơi với quỹ đất hạn hẹp, nông dân huyện đảo Kiên Hải (Kiên Giang) phải lên lưng chừng núi, chắt chiu những triền đất ít dốc để làm nông rất vất vả.

Độc đáo làng bè trên đảo 'giàu - sang'

Không chỉ rất phong phú những loài hải sản đặc hữu quý hiếm, ngư dân ở huyện đảo Phú Quý đã sáng tạo ra những công trình nuôi hải sản độc đáo hiếm có.

'Chuyện đời' cây tỏi Lý Sơn

Với vài trăm m2 đất, người trồng tỏi ở Lý Sơn thu được đến mấy chỉ vàng mỗi vụ. Đó là lý do mà loại cây này được ví với cái tên 'vàng trắng'.

Nguy hiểm đeo chì lặn biển bắt ốc, vớt rong

Ngư dân bất chấp nguy hiểm đeo chì nặng vào người để người lặn sâu xuống nước bắt ốc, vớt rong. Ngành chức năng đã cảnh báo và tịch thu dụng cụ nguy hiểm này.

Giải lời nguyền cho cây thanh long: Mối liên kết rời rạc, vai trò hợp tác xã mờ nhạt

Khó khăn về thị trường khiến người trồng bắt đầu chặt bỏ cây thanh long, giống cây trồng giúp người nông dân thoát nghèo và vươn lên làm giàu. Đấy là hệ quả của tập quán sản xuất kiểu nhỏ lẻ, tự phát, manh mún tại trong vùng trồng thanh long

Giải "lời nguyền" cho cây thanh long: “Vị đắng cây làm giàu”

Hệ quả của việc sản xuất mang tính nhỏ lẻ, tự phát, manh mún, sự cạnh tranh không lành mạnh giữa những người trồng khiến thanh long mất dần giá trị và ngày càng thất thế trên thị trường.

Ngư dân cần được tiếp sức để vươn khơi

Ngư trường ngày một thu hẹp, sản lượng đánh bắt giảm sút, chi phí đầu vào tăng cao đẩy ngư dân khắp vùng biển Nghệ An vào tình cảnh lao đao.