Tháo gỡ khó khăn tại các làng nghề

Đến nay, thành phố Hà Nội đã có 12 trong số 18 huyện, thị xã và 368/382 xã đạt chuẩn nông thôn mới, trong đó có 29 xã đạt chuẩn nông thôn mới nâng cao. Trong số các xã về đích nông thôn mới có vai trò rất lớn của các làng nghề và nghề truyền thống

t3_2-1636395310391.jpg

Nghề làm nón lá làng Chuông, xã Phương Trung, huyện Thanh Oai (Hà Nội).

Theo Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn thành phố Hà Nội, hiện nay, toàn thành phố có 807 làng nghề và làng có nghề, trong đó có 42 làng nghề truyền thống, 271 làng nghề và 494 làng có nghề. So với kết quả rà soát trước đây, Hà Nội có 1.350 làng nghề và làng có nghề, toàn thành phố có 543 làng nghề đã bị mai một. Các làng nghề trên địa bàn thành phố đã có sự tăng trưởng cả về doanh thu, giá trị sản xuất và giá trị xuất khẩu qua các năm. Trong đó, có khoảng 100 làng nghề đạt doanh thu từ 10 đến 20 tỷ đồng/năm, gần 70 làng nghề đạt từ 20 đến 50 tỷ đồng/năm và khoảng 20 làng nghề đạt hơn 50 tỷ đồng/năm, đóng góp đáng kể vào ngân sách địa phương. Hai năm trở lại đây, do ảnh hưởng của dịch Covid-19 khiến hoạt động sản xuất, kinh doanh của nhiều làng nghề bị đình trệ, nhất là việc xuất khẩu hàng hóa, du lịch làng nghề. Hầu hết các cơ sở sản xuất làng nghề đang phải đối mặt với nhiều khó khăn từ nguyên liệu đầu vào tới đầu ra của sản phẩm, vấn đề ô nhiễm môi trường, không gian sản xuất, đầu tư công nghệ sản xuất... ảnh hưởng không nhỏ đến việc phát triển của các làng nghề hiện nay.

Kết quả khảo sát của Tổ chức Forest Trends, Hiệp hội Gỗ và Lâm sản Việt Nam (Viforest) và các hiệp hội gỗ tại các làng nghề công bố trong báo cáo “Tác động của đại dịch Covid-19 tới các làng nghề gỗ” mới đây cho thấy, năng lực sản xuất của các hộ dân đã giảm tới 62%, gần 38% còn lại mới được phục hồi sau khi các địa phương nới lỏng giãn cách trong thời gian trở lại đây. Trong số các làng nghề khảo sát, có các làng nghề của Thủ đô gồm: Liên Hà, Vạn Điểm, Hữu Bằng, công suất nơi cao nhất hiện nay mới chỉ đạt hơn 50% và nơi thấp nhất chỉ đạt 30%. Các hộ đã quay trở lại sản xuất cũng chỉ mang tính chất cầm chừng với mục đích làm để giữ thợ và lấy công làm lãi mà không có lợi nhuận. Lực lượng lao động tại các làng nghề bị suy giảm nghiêm trọng, nhất là nhóm lao động tự do từ các nơi khác tới làm thuê. Đầu ra sản phẩm của các hộ giảm khoảng 76%, thu nhập của hộ giảm cũng gần 90%, nguồn gỗ nguyên liệu đầu vào cho sản xuất giảm 68% do không tiêu thụ được sản phẩm đầu ra. Ở một số nơi như Hữu Bằng, Liên Hà, lượng sản phẩm bán ra giảm mạnh, có nơi giảm từ 80 đến 90%, tương ứng với mức sụt giảm về nguồn thu của hộ. Cùng với đó, chi phí nguyên phụ liệu đầu vào cho sản xuất tăng. Giãn cách làm cước vận chuyển và giá phụ liệu tăng bình quân khoảng từ 20 đến 25%, trong khi chi phí nguyên liệu đầu vào tăng khoảng từ 5% đến 10%. Trong số các hộ sản xuất, kinh doanh đồ gỗ có tới hơn 70% số hộ phải vay vốn để sản xuất, kinh doanh. Hoạt động sản xuất đình trệ, nguồn thu bị mất hoặc sụt giảm tạo ra sức ép về các khoản vay rất lớn cho các hộ. Trước sức ép trả lãi suất ngân hàng và để tránh rơi vào danh sách nợ xấu, một số hộ phải đi vay “tín dụng đen” với lãi suất cao hơn nhiều so với lãi suất ngân hàng để trả lãi và các khoản vay đến hạn phải trả, trước khi nhận được các khoản vay mới từ ngân hàng. Điều này tiềm ẩn rủi ro rất lớn đối với các hộ sản xuất, kinh doanh.

Bà Nguyễn Thị Bảy, chủ hộ sản xuất sản phẩm gỗ tại làng nghề Hữu Bằng, huyện Thạch Thất (Hà Nội) cho biết, những ngày thực hiện giãn cách xã hội, các hộ kinh doanh phải đóng cửa do không có khách mua hàng. Khi trở lại giai đoạn bình thường mới, các khó khăn của làng nghề vẫn tiếp tục do thiếu nhân công, hoạt động vận chuyển hàng hóa bị ách tắc do nhiều nơi vẫn còn dịch bệnh. Do đó, từ đầu năm đến nay, chuỗi cung ứng luôn bị đứt gãy đã làm ảnh hưởng nghiêm trọng đến hoạt động sản xuất, kinh doanh của các hộ gia đình tại làng nghề đồ gỗ. Còn Phó Chủ tịch làng nghề mộc Liên Hà (Hà Nội) Nguyễn Trạch Thường thì cho biết vừa qua, đã có khoảng 5.000 lao động trong làng nghề phải dừng sản xuất để chống dịch. Cả làng nghề chỉ còn khoảng 10% số hộ hoạt động cầm chừng phục vụ các đơn hàng theo hợp đồng. Tuy nhiên, do chuỗi cung ứng bị gián đoạn nên việc sản xuất gặp rất nhiều khó khăn. Đến nay, sau hơn hai tháng nghỉ do dịch bệnh, cũng chỉ có khoảng 20% số đơn hàng của các hộ dân được vận chuyển đến khách hàng. Việc sản xuất trở lại của các hộ gia đình sau dịch bệnh hiện đang gặp khó khăn do nhân công vẫn bị kẹt lại tại các địa phương và các đơn hàng mới chưa khởi động kịp.

Để góp phần tháo gỡ khó khăn cho các làng nghề gỗ, từ tháng 7 đến nay, Chính phủ đã ban hành hai Nghị quyết (Nghị quyết 68/NQ-CP và Nghị quyết 105/NQ-CP) nhằm hỗ trợ các nhóm đối tượng chịu tác động tiêu cực của đại dịch Covid-19. Tuy nhiên, các hộ sản xuất tại các làng nghề không tiếp cận được với nguồn hỗ trợ này. Nguyên nhân chính là bởi các hộ không có đăng ký kinh doanh, không đăng ký thuế, do vậy các hoạt động sản xuất, kinh doanh không được các cơ quan quản lý công nhận một cách chính thức. Kết quả là các hộ nằm ngoài tiêu chí được hỗ trợ theo quy định trong các nghị quyết nêu trên. Hiện còn thiếu các tổ chức đại diện hiệu quả cho các hộ tại các làng nghề. Điều này làm cho kết nối giữa làng nghề và các cơ quan liên quan, bao gồm các cơ quan quản lý, hiệp hội gỗ, các tổ chức phát triển lỏng lẻo. Sự lỏng lẻo này hình thành cách hiểu chưa đúng về vai trò và vị thế của các hộ làng nghề và làm mất cơ hội tiếp cận với các nguồn lực. Với vai trò quan trọng của các hộ tại các làng nghề trong phát triển kinh tế địa phương và tạo việc làm cho người lao động hiện nay, các làng nghề gỗ mong muốn Chính phủ điều chỉnh lại các tiêu chí hỗ trợ theo hình thức bao trùm hơn, bảo đảm các hộ tại làng nghề có thể tiếp cận được với các nguồn hỗ trợ này và không bị bỏ lại phía sau như mục tiêu mà Chính phủ đề ra. Trong tương lai, Chính phủ cần đẩy mạnh việc trợ giúp các hộ chuyển đổi hình thức kinh doanh sang chính thức, giúp các hộ có vị thế pháp lý rõ ràng. Chuyển đổi sẽ giúp các hộ tiếp cận được với các nguồn lực của Nhà nước và của xã hội để phát triển, đồng thời tạo thuận lợi cho các cơ quan nhà nước quản lý được hoạt động của làng nghề tốt hơn trong tương lai. Qua đó, góp phần khôi phục hoạt động hiệu quả tại các làng nghề, nâng cao thu nhập cho nhân dân, đẩy mạnh phong trào xây dựng nông thôn mới tại các địa phương ổn định, bền vững.

Nguồn: Theo báo Nhân dân

Bình luận

Hải Phòng: Nghề nuôi ngao mang lại thu nhập 1.000 tỉ đồng mỗi năm

Từ 2003 bãi nuôi thả ngao đã được hình thành tại bãi triều cửa sông Văn Úc, huyện Kiến Thụy (TP Hải Phòng). Đến nay, nghề nuôi ngao đã giúp hàng nghìn hộ gia đình vươn thoát nghèo, có của ăn của để, giá trị kinh tế mỗi năm đạt 600 - 1.000 tỷ đồng

Tôm mới thả, đã chết như ngả rạ

Nhiều vùng nuôi ở Khánh Hòa tôm mới thả chưa đầy 1 tháng đã chết la liệt, người nuôi bỏ đầm. Thời tiết bất thường được nhận định là nguyên nhân khiến tôm chết.

Khó khăn nghề cá ở Thanh Hóa

Đầu năm nay, nhiều phương tiện nghề cá ở Thanh Hóa “nằm bờ” nên sản lượng đánh bắt hải sản 4 tháng đầu năm giảm hơn 4% so cùng kỳ. Ngư dân mong Nhà nước có chính sách bình ổn, hỗ trợ giá dầu để tiếp tục vươn khơi, bám biển.

Làm nông trên lưng chừng núi giữa biển Tây

Sống ở đảo khơi với quỹ đất hạn hẹp, nông dân huyện đảo Kiên Hải (Kiên Giang) phải lên lưng chừng núi, chắt chiu những triền đất ít dốc để làm nông rất vất vả.

Độc đáo làng bè trên đảo 'giàu - sang'

Không chỉ rất phong phú những loài hải sản đặc hữu quý hiếm, ngư dân ở huyện đảo Phú Quý đã sáng tạo ra những công trình nuôi hải sản độc đáo hiếm có.

'Chuyện đời' cây tỏi Lý Sơn

Với vài trăm m2 đất, người trồng tỏi ở Lý Sơn thu được đến mấy chỉ vàng mỗi vụ. Đó là lý do mà loại cây này được ví với cái tên 'vàng trắng'.

Nguy hiểm đeo chì lặn biển bắt ốc, vớt rong

Ngư dân bất chấp nguy hiểm đeo chì nặng vào người để người lặn sâu xuống nước bắt ốc, vớt rong. Ngành chức năng đã cảnh báo và tịch thu dụng cụ nguy hiểm này.

Giải lời nguyền cho cây thanh long: Mối liên kết rời rạc, vai trò hợp tác xã mờ nhạt

Khó khăn về thị trường khiến người trồng bắt đầu chặt bỏ cây thanh long, giống cây trồng giúp người nông dân thoát nghèo và vươn lên làm giàu. Đấy là hệ quả của tập quán sản xuất kiểu nhỏ lẻ, tự phát, manh mún tại trong vùng trồng thanh long

Giải "lời nguyền" cho cây thanh long: “Vị đắng cây làm giàu”

Hệ quả của việc sản xuất mang tính nhỏ lẻ, tự phát, manh mún, sự cạnh tranh không lành mạnh giữa những người trồng khiến thanh long mất dần giá trị và ngày càng thất thế trên thị trường.

Ngư dân cần được tiếp sức để vươn khơi

Ngư trường ngày một thu hẹp, sản lượng đánh bắt giảm sút, chi phí đầu vào tăng cao đẩy ngư dân khắp vùng biển Nghệ An vào tình cảnh lao đao.