“Vị quê” từ đặc sản OCOP

Lần bước tìm về làng nghề bánh đa truyền thống - làng nghề Vĩnh Đức (Đô Lương - Nghệ An) giữa cái nắng tháng 8 mới thấy được người dân nơi này chịu khó nhường nào.

4.jpg

Quá trình sản xuất bánh đa truyền thống tại làng nghề Vĩnh Đức (Khối 7, TT Đô Lương)

Chuyện của gạo và vừng

Về xứ Lường, không khó để tìm được những gia đình làm bánh đa truyền thống. Tôi quyết dừng chân tại làng nghề bánh đa Vĩnh Đức (khối 7, Thị trấn Đô Lương) để tìm hiểu bí quyết làm nên “thương hiệu” được ướp gia vị “truyền thống” này.

Trò chuyện với những hộ gia đình nơi đây, mới thấy hết được sự kì công, chịu khó và tỉ mẩn như thế nào để làm ra được chiếc bánh đa “lừng danh” khắp chốn.

Chị Hạnh (người dân làng nghề bánh đa Vĩnh Đức) vừa nướng bánh vừa kể: “Chúng tôi không biết nghề làm bánh này có từ khi nào, chỉ biết rằng, từ khi sinh ra đã thấy ông bà, cha mẹ làm bánh rồi”.

Có lẽ, làng nghề bánh đa Đô Lương tồn tại từ rất lâu, bởi không ai nhớ rõ có từ khi nào, từ bao giờ. Những chiếc bánh thơm ngon được trộn giữa bột gạo, vừng đen, tỏi, tiêu, muối…; trải qua nhiều quá trình: tráng, phơi, nướng… mới thành hình và được người tiêu dùng bốn phương lựa chọn.

Nói là vậy, nhưng đầu tiên, gạo phải là thứ gạo quê (gạo Khang Dân 18), phải ngâm một đêm, sau đó xay với nước. Nước bột gạo này pha thêm nước vừa đủ, tạo nên độ sền sệt đủ để tráng một lớp lên chiếc vỉ làm từ vải, bên dưới đặt một nồi nước sôi. Vừng đen rửa sạch, ráo nước, rắc đều lên cả hai mặt bánh. Tỏi,  tiêu, bột ngọt được thêm vào ở giai đoạn nào, rắc ra sao để vẫn giữ được mùi thơm tươi ngon ban đầu của gia vị là bí quyết riêng của từng lò bánh.

Sau khi tráng xong, những chiếc bánh đa được trải đều trên sạp rồi đem đi phơi, phơi như thế nào, bao lâu để bánh có thể giòn, giữ được hương vị cũng là cả một vấn đề. Các hộ gia đình ở làng nghề Vĩnh Đức nói rằng: “Để chiếc bánh không bị cong, vênh, cứng và đẹp mắt thì phải “canh” bánh. Tầm từ 3 đến 5 phút là phải trở một lượt (nếu nắng to), đặc biệt hơn, những chiếc bánh đa này chỉ làm được mùa nắng, dân xứ Lường quen gọi là mùa bánh đa”.

Giữ được nét truyền thống, tráng bằng tay, nướng bằng tay (thủ công) là cả một quá trình. Đó là sự kiên trì, người ta nghỉ mình làm, là sự cố gắng, học hỏi và không ngừng trau dồi, tích lũy những kinh nghiệm của ông cha để lại.

Bánh đa làng nghề Vĩnh Đức “trứ danh” bởi kĩ thuật tráng bánh, kĩ thuật pha chế. Người làm càng lâu năm kĩ thuật tráng bánh càng cao, bánh tráng ra nhìn tròn trịa, đẹp mắt và hấp dẫn.

Ông Trần Văn Công, người dân làng nghề bánh đa Vĩnh Đức (Khối 7 thị trấn Đô Lương) bày tỏ: Tôi gắn bó với nghề làm bánh đa  40 năm nay. Thời điểm dịch bệnh như thế này, những chiếc bánh đa của chúng tôi lại bán chạy, chỉ sợ không có hàng để bán. Một ngày gia đình có thể làm ra 7.000 - 8.000 chiếc bánh, hết hơn 3 tạ nguyên liệu, giá bán trung bình 20.000 - 25.000 đồng/10 chiếc bánh đa sống.

Theo ông Công, để bánh đa có độ giòn và thơm ngon hơn, người dân ở đây luôn dùng quạt tay, nướng bánh trên bếp than củi.

Tin vui là năm 2020, sản phẩm bánh đa của làng được bình chọn là sản phẩm nông nghiệp, nông thôn tiêu biểu cấp huyện và được công nhận là sản phẩm đạt OCOP 3 sao của tỉnh. Đó là niềm tự hào góp phần gìn giữ một sản phẩm đặc sản, một nét văn hóa ẩm thực truyền thống của miền quê xứ Nghệ.

a6.jpg

Người dân nướng bánh trên bếp than củi.

“Giữ lửa” cho làng nghề

Sự phát triển của làng nghề bánh đa Vĩnh Đức có ý nghĩa rất lớn đến việc chuyển đổi cơ cấu kinh tế ở nông thôn, đem lại nguồn thu nhập, tạo công ăn việc làm cho lao động địa phương. Tuy nhiên, việc phát triển làng nghề trên địa bàn đang gặp một số khó khăn nhất định.

Bảo tồn làng nghề truyền thống góp phần giải quyết việc làm, cải thiện đời sống cho hàng trăm nghìn lao động nông thôn là vô cùng cần thiết. Tuy nhiên, hiện nay khó khăn của  làng nghề sản xuất các mặt hàng truyền thống là diện tích đất sử dụng  còn hạn chế, không đủ. Vẫn còn tồn tại một số hộ chưa đủ điều kiện về kinh tế để trang bị máy móc phục vụ sản xuất.

Bên cạnh đó, việc tìm kiếm thị trường, xây dựng thương hiệu cũng là vấn đề hết sức nan giải. Mặc dù, hiệu quả trong quảng bá sản phẩm đã được các cấp hỗ trợ nhưng kết quả đạt được chưa cao. Việc mở rộng thị trường, quảng bá thương hiệu, nâng cao chất lượng sản phẩm cũng như các thủ tục giấy tờ chứng nhận sản phẩm đạt các tiêu chí đảm bảo chất lượng vẫn còn hạn chế. Khó khăn nữa là các chính sách phát triển làng nghề.

Bà Nguyễn Thị Thu Hiền, Chủ tịch Hội Nông dân thị trấn Đô Lương, cho biết: “Trong thời điểm hiện tại, khi dịch Covid-19 diễn biến phức tạp, Hội đã hỗ trợ làng nghề trong việc tuyên truyền, trực tiếp đưa các sản phẩm bánh đa vừng  tham gia quảng bá, trưng bày tại các hội chợ trong và ngoài tỉnh, tại các điểm văn hóa du lịch do huyện tổ chức. Đồng thời, tham mưu cho cấp ủy Đảng, chính quyền hỗ trợ kịp thời những hộ có hoàn cảnh khó khăn trong quá trình sản xuất kinh doanh. Kịp thời động viên, khích lệ phát triển kinh tế hộ  gắn với phát triển kinh tế của địa phương”.

Nhắc đến Đô Lương, nhiều người sẽ nghĩ ngay đến những chiếc bánh đa vừng đen giòn bùi, thơm mùi gạo đặc trưng. Đây là món đặc sản đã gắn liền với lịch sử hơn 300 năm của làng nghề Vĩnh Đức, đi cùng những người con xứ Lường qua nhiều thế hệ.

Khắp Nghệ An, tìm ra được nơi thứ hai có thể làm ra được thức bánh đa vừng đen, thứ mà người dân nơi này đặt cho một cái tên rất mĩ miều “chuyện của gạo và vừng” dường như dần vắng bóng. Được xứng danh là sản phẩm đặc sản đạt OCOP 3 sao chính là niềm tự hào cùng lưu giữ “vị quê” và tạo đà phát triển mở rộng sản xuất cho những làng nghề truyền thống hiện nay, ổn định sinh kế cho người dân trước bối cảnh nhiều khó khăn do ảnh hưởng từ dịch Covid-19.

Bánh đa Đô Lương đã được cấp giấy chứng nhận sở hữu trí tuệ. Làng nghề hiện có hơn 100 hộ sản xuất bánh đa quanh năm; tạo  thu nhập ổn định cho người dân, trung bình 5 triệu/người/tháng.  Nhà nào cũng tất bật, đỏ lửa tráng bánh. Mùi khói thơm từ việc nướng bánh lan tỏa khắp vùng rộng lớn. Những chiếc bánh đa tuy bé nhỏ nhưng  trở thành hương vị quê nhà khó quên với bao người con xứ Nghệ.

 

Nguồn: Theo Kinh tế nông thôn

Bình luận

Hải Phòng: Nghề nuôi ngao mang lại thu nhập 1.000 tỉ đồng mỗi năm

Từ 2003 bãi nuôi thả ngao đã được hình thành tại bãi triều cửa sông Văn Úc, huyện Kiến Thụy (TP Hải Phòng). Đến nay, nghề nuôi ngao đã giúp hàng nghìn hộ gia đình vươn thoát nghèo, có của ăn của để, giá trị kinh tế mỗi năm đạt 600 - 1.000 tỷ đồng

Tôm mới thả, đã chết như ngả rạ

Nhiều vùng nuôi ở Khánh Hòa tôm mới thả chưa đầy 1 tháng đã chết la liệt, người nuôi bỏ đầm. Thời tiết bất thường được nhận định là nguyên nhân khiến tôm chết.

Khó khăn nghề cá ở Thanh Hóa

Đầu năm nay, nhiều phương tiện nghề cá ở Thanh Hóa “nằm bờ” nên sản lượng đánh bắt hải sản 4 tháng đầu năm giảm hơn 4% so cùng kỳ. Ngư dân mong Nhà nước có chính sách bình ổn, hỗ trợ giá dầu để tiếp tục vươn khơi, bám biển.

Làm nông trên lưng chừng núi giữa biển Tây

Sống ở đảo khơi với quỹ đất hạn hẹp, nông dân huyện đảo Kiên Hải (Kiên Giang) phải lên lưng chừng núi, chắt chiu những triền đất ít dốc để làm nông rất vất vả.

Độc đáo làng bè trên đảo 'giàu - sang'

Không chỉ rất phong phú những loài hải sản đặc hữu quý hiếm, ngư dân ở huyện đảo Phú Quý đã sáng tạo ra những công trình nuôi hải sản độc đáo hiếm có.

'Chuyện đời' cây tỏi Lý Sơn

Với vài trăm m2 đất, người trồng tỏi ở Lý Sơn thu được đến mấy chỉ vàng mỗi vụ. Đó là lý do mà loại cây này được ví với cái tên 'vàng trắng'.

Nguy hiểm đeo chì lặn biển bắt ốc, vớt rong

Ngư dân bất chấp nguy hiểm đeo chì nặng vào người để người lặn sâu xuống nước bắt ốc, vớt rong. Ngành chức năng đã cảnh báo và tịch thu dụng cụ nguy hiểm này.

Giải lời nguyền cho cây thanh long: Mối liên kết rời rạc, vai trò hợp tác xã mờ nhạt

Khó khăn về thị trường khiến người trồng bắt đầu chặt bỏ cây thanh long, giống cây trồng giúp người nông dân thoát nghèo và vươn lên làm giàu. Đấy là hệ quả của tập quán sản xuất kiểu nhỏ lẻ, tự phát, manh mún tại trong vùng trồng thanh long

Giải "lời nguyền" cho cây thanh long: “Vị đắng cây làm giàu”

Hệ quả của việc sản xuất mang tính nhỏ lẻ, tự phát, manh mún, sự cạnh tranh không lành mạnh giữa những người trồng khiến thanh long mất dần giá trị và ngày càng thất thế trên thị trường.

Ngư dân cần được tiếp sức để vươn khơi

Ngư trường ngày một thu hẹp, sản lượng đánh bắt giảm sút, chi phí đầu vào tăng cao đẩy ngư dân khắp vùng biển Nghệ An vào tình cảnh lao đao.